Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2011

Lang Nghe Mua Xuan Ve

TRIỂT LÝ trên QUÊ CHOA


Thư riêng gửi bạn Tống Văn Công để đọc chung)                                     
Phạm Toàn
1
Ông Công à,
Nói thật đấy nhé: ngày nay, trong đội ngũ những người còn xuất hiện trong cái thần thái đáng được chú ý về sự xả thân cho lý luận và lý thuyết, có lẽ chỉ còn một ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, và một ông Tống Văn Công (xem bài: Thế nào là đột phá về lý luận. Suy nghĩ từ ý kiến Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo Hội đồng lý luận trung ương” – Trần Hữu Dũng, 24-10-2011).
Mặc dù lĩnh vực đề tài mà ông Trọng cũng như ông Công quan tâm trên phương diện lý luận đều thuộc chính trị và tuyên truyền, song chỉ khi bỗng dưng hai ông cùng một lúc phát biểu về một chủ đề và theo định hướng ấy, thì tôi mới có thể góp chuyện hầu một trong hai ông (tức ông Công – nói rõ cho khỏi hiểu nhầm). Nói như vậy cũng để phân định một điều này: cùng chuyện “lý luận”, “lý thuyết”, điều ông Công cũng như ông Trọng quan tâm, ấy là tuyên truyền. Đó tức là công việc tìm cách thuyết phục cho mọi người có một niềm tin, trong khi đối với tôi, nếu cũng phải làm gì dính dáng tới “lý luận” hoặc “lý thuyết”, điều tôi quan tâm lại là làm cách gì cho con người biết hoài nghi niềm tin của họ.
Ấy chính vì có sự khác nhau đó nên mới cần thỉnh thoảng tuy không quen nhau mà vẫn cứ phải “gửi thư” cho nhau!
2
Đặc điểm duy nhất tự cổ chí kim của công việc tuyên truyền có thể tìm thấy trong phương thức làm ăn của các nhà truyền giáo. Chỗ khác nhau của các nhà và trong các thời là ở cách thức truyền giáo. Vào cái thời đầu óc con người còn mông muội (cả nhà truyền giáo cũng không nhỉnh hơn công chúng là bao), thì truyền giáo theo lối sấm ký và theo cách ghi nhận những phép lạ (khi thiếu phép lạ thì có thể tạo ra chúng rồi lý giải những phép lạ ấy theo cách có lợi cho công việc của mình). Thế rồi đến khi con người có cái đầu óc bắt đầu khó trị tiến dần đến bất trị, thì công việc truyền giáo cũng chuyển sang mang mùi vị “thị trường” hơn – thị trường đến mức ngay cả các cô hoa hậu đang bị lột truồng ra trên sân khấu trước cả tỷ cặp mắt trần, thì lởn vởn trên tầng cao cũng vẫn có tí sắc màu “đạo đức” hoặc “triết học” nào đó do ban tổ chức rắc xuống!
Trở lại chuyện truyền giáo. Công tác truyền giáo như trên giả định ba điều: một là trước hết phải  một giáo lý để các nhà truyền giáo đem đi quảng bá; hai là, cái giáo lý đem phân phát đó cũng lại phải được giả định là chứa đựng chân lý vĩnh cửu;  và ba là, cái chân lý muôn đời ấy lại phải được giả định là được gửi gắm, không chỉ gửi gắm, còn hiện thân trong những nhà truyền giáo 
Trong cái chuỗi diễn dịch bên trên, khâu thứ nhất thường được phát ra như là “Lời của thánh thần” – vì thế mà để tiện trông mặt đặt tên, kèm theo ông thánh ông thần kia, người ta thêm cho cái đuôi tiếng Anh ism hoặc đuôi tiếng Pháp isme,sang tiếng Việt và Hoa thành chữ chủ nghĩa. Buddha-chủ nghĩa, Kitô-chủ nghĩa,Mahomet-chủ nghĩa … rồi có Marx-chủ nghĩa, Lenin-chủ nghĩa, Hitler-chủ nghĩa,Mao-isme và Stalin-ism … hai bác vừa nhắc đến cuối cùng này là thú vị hơn cả, nhưng lát nữa mới nói. Cụ Hồ là người tuyệt vời, cụ xua quầy quậy, cụ nhường hết những điều to tát cho các chú cùng thời, tên của cụ chẳng thèm gắn với bất kỳ cái đuôi nào, kể cả và nhất là cái đuôi isme.
Còn lại cái khâu thứ hai, một giáo lý-chân lý và khâu thứ ba, những nhà truyền giáo. Chẳng cần phải học hành giỏi giang, chỉ cần quan sát sự đời nhờ kinh nghiệm, con người cũng dần dần thực hiện được bước chuyển từ cuộc sống không thể thiếu thần thánh sang cuộc sống chẳng cần mấy đến thánh thần. Sự biến chuyển nhận thức cảm tính đó thực hiện dễ hơn cả ở những nhà văn, trong phòng thí nghiệm của họ là đời sống cảm tính. Nhà văn Pháp Alphonse Daudet, trong truyện Hoàng tử nhỏ sắp chết (La mort du Dauphin) đã mô tả sự lung lay của Chân lý khi Hoàng tử con vua cha đầy quyền lực thì cũng vẫn cứ chết như con nhà thường dân. Trong tiểu thuyết của Thomas Mann Ngọn núi huyền ảo (La montagne magique) chỉ qua bối cảnh nhà nghỉ dưỡng Berghof, tác giả đã điểm lại toàn bộ nền văn minh phương Tây trong cảnh em bé níu kéo lấy cuộc sống trần gian, nằng nặc từ chối xưng tội lần cuối để thanh thản từ giã cõi đời này và – thanh thản sao được kia chớ? – để bước qua một chốn đẹp hơn như vẫn truyền tụng theo giáo lý.
Giáo lý hết thiêng – nhưng nhà truyền giáo lại chưa chết ngay cho, bi kịch của mọi cuộc sống chi phối bởi tôn giáo là ở đó! Các giáo sĩ thay phiên nhau tỏ ra thông minh hơn nhau một chút, kiễng chân cao hơn đồng nghiệp một chút, để tìm cách làm cò mồi cho một cái tưởng như là mới hơn kỳ tình cả hai cái “cũ” và “mới” thảy đều cũ mèm. Hệt như trong tiểu thuyết Rumani của N. Stancu được Trần Dần dịch và in ở Hà Nội, Những người chân đất, hai anh luật sư cãi nhau ở tòa tưởng đâu như họ có thể xé xác nhau để bảo vệ thân chủ … thế rồi xong phiên tòa, cả hai cùng ra quán bia, và nâng cốc cho những thời cơ vàng sẽ còn diễn ra nhiều nhiều – chữ “thày cò” có lẽ ra đời từ đó ở xứ Lỗ-Mã-Ni?
3
Cùng với công nghiệp hóa trên phạm vi toàn cầu, khi chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa vô thần lan tràn trong thời hiện đại, thì cũng bắt đầu thời đại phá sản của tất cả các lý luận và lý thuyết vốn “linh thiêng” một thời.
Lời của những đấng linh thiêng kiểu như Zarathoustra ngồi phán trên núi cao không còn lọt tai tất cả mọi con người nữa. Niềm tin tôn giáo lung lay khắp nơi. Ngay cả ông thày tu như Teilhard de Chardin thì cũng từng là một nhà địa chất học, và phần hồn con người cũng được nhà bác học thày tu đó nhìn như một “quyển” – cái được ông đặt tên là noosphère (Trần Dần xúi tôi hiểu đó là “tuệ quyển”). Các giá trị đơn sắc của những tín điều đã bị khoa tâm lý học chọc vào để lý giải sự tiếp nhận tự do đa sắc của con người đa dạng và đa diện. Việc một nhà bác học như Pavlov ở Liên Xô cứ mỗi sáng Chủ nhật lại cố ý cho bà con hàng phố thấy cả nhà ông đi lễ nhà thờ không biết có bao nhiêu phần tín ngưỡng và có bao nhiêu phần chọc tức?
Nghĩ rằng, đã có một nguyên nhân kép, hoặc có hai nguyên nhân gắn bó soắn suýt nhau, mà ta cần suy nghĩ để lý giải sự mất thiêng trong đau đớn của các giáo lý. Để đi tới những thành tựu khoa học, các nhà bác học không thể không có nhãn quan duy vật – từ “nhà bác học đồ tể” Galien giải phẫu xác các đấu sĩ đến nhà tư tưởng sinh học cao siêu Charles Darwin đều có chung những chứng cứ vật chấtcủa sinh giới. Thế rồi, tất cả các nhà khoa học duy vật ấy đều đứng trước một sự thật trần trụi không con người nào tránh nổi: cái chết. Cái chết không trừ một con người “bất tử” nào! Và không con người nào không bất tử ấy lại biết rõ sau khi chết mình sẽ đi đâu. Bộ phim mới nhất vô cùng cảm động về Charles Darwin khi bắt gặp cái chết của cô con gái yêu trong lúc đã hết trong lòng ông cái niềm tin về một linh hồn bất tử về nước Chúa, câu chuyện đã phần nào cho ta thấy một gương mặt kép trong cái nguyên nhân vừa nhắc tới.
Thực tại ấy làm thay đổi nhận thức và thay đổi dần thái độ con người trước những lý luận, những lý thuyết vẫn tồn tại như những chân lý muôn đời. Con người thời hiện đại bỗng chân thành hơn nhiều, họ từ chối cãi chầy cãi cối bảo vệ và tán phát giáo điều của những thánh thần đã chết hoặc những thần thánh đang thoi thóp. Khiêm nhường hơn nhiều, con người hiện đại không muốn tin là mình có khả năng truyền đạt những giáo lý cao vòi vọi. Và thiết thực hơn nhiều, con người hiện đại tin vào những gì chính năng lực của mình tạo được ra – thay vì hô khẩu hiệu cho “sức mạnh quần chúng” thực hiện hô.
Thời hiện đại được chứng kiến sự ra đời của những ý tưởng thiết thực bao giờ cũng đi kèm với những giải pháp được “nhà tư tưởng” – đơn giản là tác giả của ý tưởng – tự mình đứng ra thực hiện.  Thời đại mới là thời đại của những cá nhân (hoặc nhóm – mà nhóm thì cũng bắt đầu từ một cá nhân trước khi lan sang các cá nhân khác cùng “thanh khí” và tài năng) thực sự định ra một hướng đi và đồng thời cũng định ra cả cách làm để đạt mục tiêu, với rất nhiều dè dặt tạo cơ hội cho những điều chỉnh dọc con đường đi đến mục tiêu.
Hiểu về lý luận và lý thuyết theo cách khác đi sẽ giúp con người nhìn thấy kết quả những “kiến nghị với cuộc sống” do chính mình đưa ra và chính mình thực thi. Ngay cả những ý kiến đen tối cỡ như tư tưởng làm sạch tộc người Arien bằng cách tiêu diệt hết người Do Thái của Hitler thì cũng cho kết quả trong vòng một phần tư thế kỷ – mà không hề viện dẫn tới bất kể “thời kỳ quá độ” co giãn nào. Hoặc sáng kiến thiết lập nền khoa học vô sản bằng cách đưa “điển hình tiên tiến” Mitchourin-Lysenko thành lý thuyết cách mạng: giải pháp của Stalin (cũng như phong cách Mao Trách Đông sau này) dẫn tới sự đàn áp và giết chết hàng chục triệu người. Nhưng cả “bác Mao” lẫn “ông Stalin” đều được thấy kết quả nhãn tiền. Đáng thương chính lại là đồng chí Lysenko: trong cuốn sách kể lại chuyện này, đồng chí ấy được mô tả như một con người quằm quặm quàu quạu, cau có khó khăn, chắc là vì trong chăn nên biết tỏng trong chăn có gì, biết đó mà không cưỡng lại được!
Hiểu về lý luận và lý thuyết theo cách khác đi sẽ giúp cho các nhà “sáng tạo” có khả năng hiện thực kiểm chứng kết quả của tư tưởng của chính mình. Vĩ đại như Einstein cũng được các đồng nghiệp đo giúp độ lệch của tia mặt trời, để thấy rằng mình không sai. Khổng lồ như Charles Darwin thì cũng có các bạn đồng nghiệp hậu sinh moi ra cái cơ chế thông tin di truyền xoắn xuýt xanh đỏ tím vàng, đẹp ơi là đẹp, mỏng manh ơi là mỏng manh, mà sao mạnh thế, mạnh gớm ghê, mạnh cho đến khi loài người công bố bản đồ gen thì mới càng thấy loài người không cần những thần thánh với những chân lý muôn năm – chỉ vài ba chục năm thôi, nhưng nếu thực thi được tư tưởng tốt đẹp của một người, thế đã là quá đủ!
Hiểu về lý luận và lý thuyết theo cách khác đi sẽ giúp cho loài người bớt sản sinh ra những anh nói khoác (hoặc nói những điều vô bổ). Và bớt cả những anh còn tiếp tục đối thoại với những anh nói những điều chính mình cũng cóc hiểu là gi gỉ gì gi nhưng cái gì cũng cứ nói lấy được!
Chào anh Công, chúc anh vui khỏe.
Chú thích cùng lúc chấm hết bài viết này: mình vừa đọc được tin sau “Chủ tịch Mustafa Abdul Jalil nói trong ngày chiến thắng Gadhafi “Tôi kêu gọi mọi người hãy tha thứ, khoan dung và hòa giải. Hãy bỏ qua thù hận và ghen ghét trong linh hồn của mỗi chúng ta. Đây là việc cần thiết cho sự thành công của cách mạng và của tương lai Libya”. Đó là một tư tưởng. Tư tưởng đó còn cần giải pháp khả thi. Để cho phù hợp với tiêu chuẩn của lý luận và lý thuyết vào thời hiện đại. Chúc các đồng chí hậu kỳ Ngu Tối Kaddafi thoát được giai đoạn quá độ để sớm qua cõi Sáng.
Hà Nội, đêm 27-10-2011
Viết khi nhớ đến các đồng nghiệp trong nhóm C.B.     
Tác giả gửi cho Quechoa

Chuyện YÊU trên QUÊ CHOA


Vietinfo đưa tin Cựu TBT Nông Đức Mạnh cưới vợ trẻ: “Theo nhiều nguồn tin khác nhau, sau khi rời ghế Tổng bí thư Đảng CSVN chưa đầy một năm, ‘Cụ’ Nông Đức Mạnh cảm thấy ‘cô đơn’ và quyết định lấy vợ mới. Vị hôn thê mới của ‘Cụ’ là cô gái trẻ và dễ thương vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh)…Cô dâu là Đỗ Thị Huyền Tâm, sinh 17/10/1966, quê tại Ninh Xá, Bắc Ninh…Cô là Tổng giám đốc một công ty trách nhiệm ‘vô hạn’ Minh Tâm , là đại biểu Quốc hội khoá 12 và khoá 13 hiện nay.
Chẳng biết trúng hay trật nhưng thấy vui vui. Anh Ba Sàm thì bình luận:” Chuyện “yêu” thì chắc chắn rồi, nhưng “cưới” hay chưa thì mới là tin đồn. Nội dung bài viết cũng có những chi tiết không được chính xác, hơi “dìm hàng” cô dâu quá (“4 lần lên xe hoa”. Thực ra 2 lần là lên xe … với “đại gia” thì đúng hơn). Có lẽ vì vậy mà lối viết cố tình tếu táo cho bà con hiểu là tin “vỉa hè”. Vỉa hè thì vỉa hè, mình vẫn vui như thường.
Việc bác Mạnh yêu hay cưới vợ hai là chuyện bình thường. Bác Nguyễn Trọng Tạo chẳng chức tước bổng lộc gì mà nghe đâu đang định cưới vợ thứ tư, huống gì là bác Mạnh. Nhìn bác Mạnh cười, hàm răng trắng đều tăm tắp biết bác hảy còn sung lắm, răng chắc cặc bền mà. Bác còn yêu được là mừng cho bác ,còn sống còn yêu vậy là vui rồi. Bác Mạnh sinh năm 4o, năm nay đã 72 tuổi rồi. Tuổi ấy Bác Hồ lo ngồi viết di chúc, bác Mạnh vẫn còn yêu được và được gái yêu là rất vui, cuộc đời vẫn đẹp sao he he.. .
Một mụ nạ dòng, hoa khôi năm cà cuống, hay tin này bình một câu tỉnh bơ, nói ông này nông nhưng mà mạnh, duyệt, nếu là tao thì tao cũng duyệt. Đúng đúng. Thôi thì không yêu dân thì yêu gái vậy, không làm  cho dân hạnh phúc thì làm cho gái sung sướng, cũng gọi là tài. Bây giờ mình mới thực sự phục tài bác Mạnh,  hi hi.

CHUYÊN MỤC

Chủ Nhật, 16 tháng 10, 2011

Thơ LÊ HUY QUANG

CHÂN DUNG
1.
Mọi thứ tưởng tượng đều hết linh thiêng
Em là mẩu tin hàng ngày
                    quán nước chè năm xu đầu phố.
Anh nhặt và anh nghe
từ tay này anh chuyển em sang tay kia
Anh nói
- Em là con toán bất động sản
Anh giải tìm trong lãng quên!Em là phin cà phê pha đêm,
Em nhỏ giọt vào mắt anh nóng bỏng
Em nhỏ giọt vào tay anh sóng sánh
Ta nhỏ giọt
                  giọt giọt
                                vào nhau
2.
Em ơi đêm nay hãy tẩm quất cho anh
mỗi
      đốt
            xương
                         anh
                                em rút lên trần nhà
                                                               cao vót
Em ngồi ngang lưng anh em ve vuốt
cho vơi nỗi nhọc nhằn
rồi cuối cùng một phút thảnh thơi hơn
Em yêu anh gánh thêm đòn tội nợ
Anh làm con nợ thời gian…………….
3.
Bệnh già đến với anh sớm lắm em ơi
kết quả bốn mùa rong chơi  phố
Anh không đội mũ
phơi tóc khét màu mưa đông nắng hè
Anh không quyền yêu em, em còn sạch quá
Hai mươi năm sau
                             Em làm đàn bà góa
Anh sẽ đến tìm em
Anh sẽ đến vào đêm sập cửa
phần con ta nuôi chung không cần đổi họ
Ta ôm ấp mối tình tang
Anh lang thang em
Anh xanh xao em
Anh mi ni em
Đêm về
            Anh
                     tiết canh
Em………………………………………………………………………………………
                                                                                          1969
***

VỀ MỘT THỜI CHÂN ĐẤT

NHẬT TUẤN
(Nhân Vương Trọng mới đá móc Lê Huy Quang tại Hội thảo thơ Sầm Sơn và bài Lê Huy Quang thưa lại với Vương Trọng trên trang LeThieuNhon)
         
                                                                                 
            “Bạn ơi giao hợp nơi đâu ?
             Đêm về gác trọ sắc mầu đung đưa…”

Thơ Hoàng Hưng viết tặng Lê Huy Quang, đọc lên cứ như  tiếng thở dài tủi phận của cả một “ thế hệ chân đất “ thập kỷ 70.
Gần 40 năm rồi, ngày đó,  Lê Huy Quang cứ “ xô-lêch dài…đêm tóc…môi lang thang” , xô-lêch mù thì hay hơn, ngược xuôi phố xá Hà Nội trong túi thổ cẩm kè kè bên vai lúc nào cũng có ít ra vài câu thơ mới .
 Ngày đó thường tụ tập ở nhà tôi để “dài mùa khóc mướn thương vay” có bác Dương Tường làm thơ về mùi nách chị Đoàn Lê, có Hoàng Hưng “chờ gió thu sao chẳng tới”, có Trí Dũng – tức Dũng Bảo Đại, có Lê Xuân Đố tức Đố điên, có Chu Hoạch một thời móc cống….
Và đúng như thơ Trí Dũng :
“Trăm ruộng dâu không chín một nong tầm”Tụ tập thế thôi, bàn bạc thế thôi, lang thang thế thôi, thơ ca thế thôi nhưng cũng chỉ “samizờđát” – tự xuất bản mồm với nhau, vẫn là “bọn bàng thống “ theo cách  quy chụp của bác Chế Lan Viên, “bọn chân đất” theo phân loại của “cơ quan chức năng.” mà hồ sơ dành cho mỗi thằng chắc phải  dày cả thước.
Kể ra lập hồ sơ cũng phải, có đêm Lê Huy Quang nằm nhà tôi thao thức :
” Ước gì sáng mai ngủ dậy…Hà Nội  đã ”trắng” bạch kỳ”.
Sáng hôm sau, Lê Huy Quang sì ra những câu như là “tuyên ngôn” : 
          “ Cái đói dồn về ga
  Chúng mình thì như thế
…Thân cò run chơi vơi..
Bốn ngàn năm lặn lội
Trắng một chùm dấu hỏi “

hoặc :
“ Thời chúng mình là hai bàn tay trắng
trăng trắng suông và mây trắng bay về..”
Thời đó “chính thống” không ai làm thơ thế. Họ ca ngợi Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, tôn vinh  dũng sĩ diệt Mỹ thảy dao vào ngực ác ôn, reo vui “mùa này ta hát khắp Trường Sơn”. .
Thơ chân đất, thơ “bàng thống” chẳng đi B cũng chẳng vào “tuyến lửa” cứ loanh quanh hết phố xá Hà Nội  :
“ Gió đầu ô gió – Đầu ô em
Gió đầu ô gió – Đầu ô đông
Khi tóc ai về buông giấc…”

hoặc :
“Ngơ ngác người em nơi nào về
                 làm âm vang Ga Hàng Cỏ
                      se se
                        một gió
                             còi tàu…”

Quẩn quanh Hà Nội chán rồi lại “nhảy tàu Phòng “ :
“ Cây Hải Phòng , thay lá muộn vào đông..”
“Tôi uống Hải Phòng ,
             cốc vại cà phê lấm đầy than bụi…’

Ngay cả em gái Hải Phòng cũng không trong tư thế cầm súng mà lại
“Em
       lau mình
                     góc tắm
                                   trắng
                                            lưng ong…”

Nhưng cái làm thơ Lê Huy Quang còn một vài bài vượt qua được “cát bụi thời gian” chính là cái “âm điệu Quang” – một thứ âm điệu tưởng như là của Trần Dần nhưng lại chẳng phải Trần Dần, tưởng  như  Đặng Đình Hưng lại không phải Đặng Đình Hưng … mà đúng là “âm điệu Lê Huy Quang” :
“ Cành tay em im cành tay em
cành tay em im cành tay đêm…”
hay :
“ Mương nước sáng bờ cây chiều
      dẫy dẫy
                 cột đèn
                              chim rũ cánh mưa
em đi làm rửa chân gầu giếng  ấm
ao xóm
                 cồn về
                                gái xóm
giêng rồi
            thấp thoáng
                               áo em giêng

Trúc Thông khen Lê Huy Quang không phải là hoạ sĩ không viết được thế nhưng thực ra bài thơ đặc sắc lại là ở “âm điệu Quang” – thiên về nhạc.
“Mưa dài hai vòng tay
Mưa dài hai vòng quay
Mưa dài mua mùa  bay
Mưa dài mua mùa may
Mưa dài loa qua ngày..”

        
Tôi phải thú tội với Lê Huy Quang đã nhiều lần “thuổng “thơ của anh:
                              “ Ám ảnh anh từ ảnh em”
để tán mấy em 7x,8x mà chưa lần nào trả nhuận bút cho tác giả. Thời đó, thơ “tán gái” của Quang cũng đã chui vào sổ tay của khối em nữ sinh viên Tổng hợp văn.
         “ Anh lang thang em
            Anh xanh xao em
            Anh mini em
              Đêm về
                             Anh
                                        tiết canh
                    Em…”

       hoặc :
             “ Em trinh bạch
                Hình hài em “Tĩnh Vật”
                Anh
                bốn mùa quăng quật những Rong Chơi…”

Thơ Lê Huy Quang thuộc “bọn bàng thống”, “bọn chân đất”. Mà không chỉ có Quang, còn  Phan Đan, Chu Hoạch, Trí Dũng, Lê Xuân Đố, Thọ Vân, Nguyễn Lâm (tức Lâm Râu)…còn nhiều lắm. Các nhà phê bình nên tìm vào kho “lưu trữ” quốc gia mà “khai quật ”. Chắc còn nhiều thứ khiến ta phải giật mình..
 Nguồn:      
http://nhattuan2011.blogspot.com/























Thứ Ba, 11 tháng 10, 2011

Cùng nhau chết vì tự thấy đã thỏa mãn


Tối ngày 5/10, cảnh sát bang Goa tìm thấy xác một cặp vợ chồng đã bị phân hủy sau khi tiếp nhận nhiều lời phàn nàn về mùi hôi thối tỏa ra từ căn hộ. Họ nghi ngờ đôi vợ chồng Anand (39 tuổi) và Deepa Ranthidevan (36 tuổi) đến từ Nam Ấn Độ đã tự tử cách đó ba ngày.
Đôi vợ chồng đã tháo bỏ quạt trần trong phòng khách và treo một sợi dây gắn liền với móc. "Chúng tôi nghi ngờ rằng họ đứng cùng nhau trên một chiếc ghế và tự gắn mình với một đầu của mỗi sợi dây và sau đó đẩy ghế ra.", nguồn tin cảnh sát cho biết. 
Thành phố Panaji, bang Goa, Ấn Độ (Ảnh minh họa, nguồn: vi.hotels.com)
Tuy nhiên, điều kỳ lạ nhất là những gì được viết trong lá thư tuyệt do vợ chồng này để lại đề ngày 3/10 gửi đến người nhà ở các tiểu bang. Trong đó khẳng định, họ tự nguyện kết liễu cuộc sống của mình mà không ai phải chịu trách nhiệm cho cái chết đó.
"Chúng tôi đã sống cuộc sống rất vui vẻ và hạnh phúc cùng nhau. Chúng tôi đã đi du lịch thế giới, sống ở các nước khác nhau và kiếm được nhiều tiền hơn chúng tôi tưởng… Chúng tôi tin vào triết lý rằng cuộc sống của chúng tôi thuộc về nhau và chỉ có chúng tôi có quyền chọn được chết như mọi người có quyền được sống.".
Theo điều tra, cặp vợ chồng này không vướng vào khoản nợ nào. Di chúc để lại bao gồm danh sách tài sản với tất cả các món đồ đạc và ngôi nhà hai vợ chồng đồng sở hữu kèm theo thư tuyệt mệnh có chữ ký.
Chúc thư còn ghi rõ nguyện vọng của Anand và Deepa sau khi chết là được thiêu xác trong điện hoả táng của chính phủ. 
Ngoài ra, họ còn để lại 10.000 rupi tiền mặt trong phong bì để trang trải chi phí cho việc hỏa táng.
Cảnh sát đã tổ chức khám nghiệm tử thi và báo cho thân nhân của người quá cố. Tuy nhiên, những người này quá già để di chuyển tới Goa nên họ đã yêu cầu cơ quan chức năng thực hiện những nghi thức cuối cùng.
Việt Trang (Theo Times of India)

Tin mới nhất


Các tin khác